CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG THIẾU KẼM
Chiến lược phòng chống thiếu kẽm tương tự như phòng chống thiếu vi chất dinh dưỡng khác bao gồm các hoạt động toàn diện như sau:
1. Khuyến khích chế độ ăn đa dạng thực phẩm trong bữa ăn, sử dụng thực phẩm giàu kẽm, thay đổi những thói quen ăn uống có lợi cho hấp thu kẽm…
2. Bổ sung kẽm vào thực phẩm như bánh quy, ngũ cốc, bột dinh dưỡng, bột mì, hạt nêm… Các sản phẩm được bổ sung vi chất được ghi rõ trên nhãn mác về liều lượng và loại vi chất bổ sung. Cần lưu ý thời hạn sử dụng trên nhãn mác.
3. Thúc đẩy và hỗ trợ nuôi con bằng sữa mẹ tại cộng đồng.
4. Dự phòng và điều trị bệnh liên quan tới thiếu kẽm (nhiễm khuẩn kéo dài như tiêu chảy, nhiễm giun, bệnh viêm tuỵ, viêm thận…). Phòng chống nhiễm ký sinh trùng đường ruột. Tuyên truyền giáo dục cho người dân thực hiện tốt vệ sinh cá nhân, vệ sinh môi trường, sử dụng nước sạch, kết hợp với các chương trình chăm sóc sức khỏe ban đầu khác như phòng chống giun sán, tiêm chủng mở rộng, nước sạch, phòng chống tiêu chảy....
5. Dự phòng và điều trị thiếu kẽm (tại cơ sở y tế).
6. Giáo dục dinh dưỡng: Thực hiện truyền thông giáo dục đại chúng, hướng dẫn thực hành để các gia đình biết cách phòng chống thiếu kẽm thông qua chế độ ăn.
7. TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG PHÒNG CHỐNG THIẾU KẼM TẠI CƠ SỞ
7.1. Đa dạng hóa bữa ăn
- Thông qua giáo dục truyền thông làm cho mọi người hiểu được và quan tâm tới thiếu kẽm. Giáo dục và phổ biến cho mọi gia đình về phương pháp đa dạng hoá bữa ăn. Phối hợp nhiều loại thực phẩm từ 4 nhóm thực phẩm trong bữa ăn hàng ngày. Chế độ ăn cần cung cấp đủ năng lượng và các thực phẩm giàu sắt/kẽm. Nuôi con bằng sữa mẹ và ăn bổ sung hợp lý là biện pháp tốt nhất phòng chống thiếu kẽm ở trẻ nhỏ.
- Làm tăng khả năng hấp thụ sắt/kẽm nhờ tăng cường sử dụng thực phẩm có nhiều vitamin C như rau xanh, hoa quả. Hướng dẫn và khuyến khích các cách chế biến như nảy mầm (giá đỗ), lên men (dưa chua...) vì các quá trình này làm tăng hàm lượng vitamin C và giảm axit phytic trong thực phẩm do vậy làm tăng hấp thu sắt/ kẽm từ khẩu phần. Thay đổi một số thói quen ăn uống có thể làm tăng hấp thu kẽm từ khẩu phần như uống nước chè 1-2 giờ sau ăn.
- Thúc đẩy, hỗ trợ nuôi con bằng sữa mẹ: Tư vấn, hỗ trợ cho bà mẹ cho bú trong vòng nửa giờ đầu sau khi sinh, cho trẻ bú mẹ hoàn toàn đến 6 tháng tuổi và tiếp tục cho bú tới 24 tháng. Giáo dục dinh dưỡng về nuôi con bằng sữa mẹ cho phụ nữ có thai.
- Khuyến khích sử dụng các thực phẩm giàu kẽm gồm: Các thức ăn từ động vật như hàu, cua bể, thịt bò, tôm, thịt, cá. Các thức ăn này không chứa chất ức chế hấp thu kẽm (và sắt).
- Sử dụng các thực phẩm có bổ sung kẽm tại cộng đồng (hạt nêm bổ sung kẽm, bánh quy bổ sung kẽm, bột mì bổ sung kẽm, mì tôm bổ sung kẽm, bột dinh dưỡng, sữa, cốm bổ sung kẽm...).
- Bổ sung kẽm bằng đường uống (tại trạm y tế).
7.2. Các biện pháp dự phòng và điều trị bệnhgiúp hỗ trợ phòng chống thiếu kẽm
- Tiêm chủng đúng lịch cho trẻ để phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn như sởi, bạch hầu, ho gà, uốn ván, lao, bại liệt, viêm gan B, viêm não nhật bản B tại các cơ sở y tế.
- Tẩy giun định kỳ cho trẻ em từ 2 tuổi trở lên, 6 tháng một lần.
- Tập huấn và tăng cường kiến thức và kỹ năng chăm sóc trẻ bệnh.
- Theo dõi tăng trưởng và phát triển cho trẻ em.
7.3. Dự phòng thiếu kẽm bằng uống bổ sung kẽm
Cán bộ y tế là bác sỹ sẽ chỉ định liều dự phòng thiếu kẽm cho các đối tượng có nguy cơ thiếu kẽm.
Liều lượng: Liều bổ sung dự phòng thiếu kẽm tương ứng với nhu cầu sinh lý hàng ngày.
- Trẻ từ 7 tháng đến 3 tuổi: 5mg kẽm nguyên tố/ngày.
- Trẻ từ 4-13 tuổi: 10mg kẽm nguyên tố/ngày.
- Người lớn: 15mg kẽm nguyên tố/ngày.
- Phụ nữ có thai 15 - 25mg kẽm nguyên tố/ngày.
Có thể dùng theo từng đợt từ vài tuần đến vài tháng, cho trẻ kém ăn, chậm tăng cân, trẻ không được bú mẹ, trẻ sinh thiếu tháng nhẹ cân, suy dinh dưỡng bào thai, phụ nữ mang thai.
Nguồn: Trích từ cuốn Chăm sóc Dinh dưỡng cho bà mẹ & trẻ em - Viện Dinh dưỡng