Vai trò của Sắt
Vai trò của Sắt:

  • Sắt có vai trò quan trọng để tạo hồng cầu

  • Vận chuyển oxy và CO2 trong quá trình hô hấp (Hb)

  • Dự trữ oxy cho cơ (myoglobin)

  • Vận chuyển electron (cytochrom, mitochondrial dehydrogenase)

  • Hô hấp tế bào (catalase, peroxydase)

  • Tham gia vào thành phần của một  enzym trong hệ miễn dịch.

  • Sắt còn là thành phần của một số men quan trọng

  • Sắt có  vai trò quan trọng trong sự phát triển trí não ở trẻ.
Nhu cu st vi cơ th

Sắt đóng vai trò rất quan trọng trong cơ thể là cùng với protein tạo thành huyết sắc tố (hemoglobin), vận chuyển O2 và CO2, phòng bệnh thiếu máu và tham gia vào thành phần các men oxy hóa khử. 

Thiếu sắt nói chung là do nguyên nhân ăn uống thiếu sắt so với nhu cầu khuyến nghịMột số tình trạng bệnh lý có thể dẫn đến tăng nhu cầu sắt. Lượng sắt cơ thể bị mất có liên quan với tình trạng sinh lý, ví dụ hành kinh là giai đoạn mất chất sắt nhiều nhất đối với phụ nữ trong lứa tuổi sinh đẻ. Phụ nữ trong thời kỳ mang thai có nhu cầu sắt tăng lên, đặc biệt là ở nửa sau thai kỳ. Đối với trẻ đang lớn, nhu cầu sinh lý cho sự phát triển (trong bào thai, sau khi sinh và tuổi dậy thì) tăng lên là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới tình trạng sắt. 

Nhu cầu sắt tăng lên có thể đáp ứng được nhờ chế độ ăn giàu sắt giá trị sinh học cao. Tuy nhiên, ở một số nước đang phát triển, khả năng tiếp cận các nguồn thực phẩm nguồn động vật có lượng sắt giá trị sinh học cao rất thấp và khẩu phần hàng ngày chủ yếu gồm các thực phẩm nguồn gốc thực vật nên nguy cơ bị thiếu sắt cao. 

Tình trạng nhiễm ký sinh trùng, đặc biệt nhiễm giun móc và bệnh sốt rét có ảnh hưởng đáng kể nhất tới sức khỏe cộng đồng. Thêm vào đó, nhiễm Helicobacter pylori (H. Pylori) gần đây được báo cáo có tỷ lệ cao tại các nước đang phát triển, dẫn tới tình trạng thiếu sắt nhưng cơ chế và nguyên nhân vẫn chưa được biết rõ. Có giả thuyết cho rằng nhiễm H. pylori làm giảm sự bài tiết acid dẫn tới giảm hấp thu sắt trong ruột. Các bệnh khác như loét và chảy máu đường ruột cũng có thể gây thiếu máu thiếu sắt nhưng thường không phải là vấn đề có ý nghĩa sức khỏe cộng đồng.

Rất hiếm gặp tình trạng thừa sắt do tiêu thụ thực phẩm nhờ cơ chế tự điều hòa chuyển hóa của cơ thể. Tuy nhiên có thể gặp tình trạng tích lũy gây thừa sắt ở những bệnh nhân phải truyền máu thường xuyên trong các bệnh thiếu máu huyết tán. 

Các tác dụng phụ của việc tiêu thụ quá nhiều sắt có thể bao gồm:

  • Ngộ độc cấp: với các triệu chứng nôn mửa và tiêu chảy, tiếp theo là tim mạch, hệ thống thần kinh trung ương, thận, gan và các triệu chứng huyết học.

  • Các ảnh hưởng đến đường tiêu hóa kết hợp liên quan với việc bổ sung liều cao như táo bón, buồn nôn, nôn, tiêu chảy.

  • Quá tải sắt thứ phát, xảy ra khi các kho dự trữ sắt trong cơ thể tăng như là một hệ quả của sự truyền máu nhiều lần hoặc rối loạn huyết  học làm tăng tỷ lệ hấp thu sắt.


 Bảng Nhu cầu Sắt khuyến nghị
(Nhu cầu dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam, 2016)

Nhu cầu khuyến nghị

Nhu cầu về sắt được áp dụng theo khuyến nghị của FAO/WHO 2004, SEA-RDAs 2005 được đưa ra trong bảng 19. Nhu cầu được tính toán dựa trên bốn cấp độ giá trị sinh học của sắt trong khẩu phần ăn và thay đổi nhu cầu sắt ở phụ nữ có kinh nguyệt và hiệu chỉnh theo cân nặng nên có của người Việt Nam.

Nhu cầu khuyến nghị sắt (mg/ngày)

Nhóm tuổi

Nam

Nữ

Nhu cầu sắt (mg/ngày) theo giá trị sinh học của khẩu phần

Nhu cầu sắt (mg/ngày) theo giá trị sinh học của khẩu phần

Hấp thu 10% **

Hấp thu 15%****

Hấp thu 10% **

Hấp thu  15% ***

0-5 Tháng

0,93

 

0,93

 

6-8 Tháng

8,5

5,6

7,9

5,2

9-11 tháng

9,4

6,3

8,7

5,8

1-2 Tuổi

5,4

3,6

5,1

3,5

3-5 Tuổi

5,5

3,6

5,4

3,6

6 -7 Tuổi

7,2

4,8

7,1

4,7

8-9 Tuổi

8,9

5,9

8,9

5,9

10-11 Tuổi

11,3

7,5

10,5

7,0

10-11 tuổi (Có kinh nguyệt)

24,5

16,4

12-14 tuổi

15,3

10,2

14,0

9,3

12-14 tuổi (Có kinh nguyệt)

32,6

21,8

15-19 tuổi

17,5

11,6

29,7

19,8

20-29 tuổi

11,9

7,9

26,1

17,4

30-49 tuổi

11,9

7,9

26,1

17,4

50 -69 tuổi

11,9

7,9

10,0

6,7

> 50 tuổi (có kinh nguyệt)

26,1

17,4

> 70 tuổi

11,0

7,3

9,4

6,3

Phụ nữ có thai (trong suốt cả quá trình)

+ 15 ****

+ 10 ****

Phụ nữ cho con bú

Chưa có kinh nguyệt trở lại

13,3

8,9

Phụ nữ sau mãn kinh

Đã có kinh nguyệt trở lại

26,1

17,4


Nguồn:

FAO/WHO. Vitamin and mineral requirementsin human nutrition.A report of a joint FAO/WHO expert consultation. Bangkok: FAO/WHO; 2004 [47],

International Life Science Institute (ILSI, 2005). South Asia Region. Recommended Dietary Allowwances: Harmonization in South East Asia. Asia, Current Status and Issues. [17]

** Loại khẩu phần có giá trị sinh học sắt trung bình (khoảng 10% sắt được hấp thu): Khi khẩu phần có lượng thịt hoặc cá từ 30g - 90g/ngày hoặc lượng vitamin C từ 25 mg - 75 mg/ngày.

*** Loại khẩu phần có giá trị sinh học sắt cao (khoảng 15% sắt được hấp thu): Khi khẩu phần có lượng thịt hoặc cá > 90g/ngày hoặc lượng vitamin C > 75 mg/ngày.

**** Bổ sung viên sắt được khuyến nghị cho tất cả phụ nữ mang thai trong suốt thai kỳ. Những phụ nữ bị thiếu máu cần dùng liều điều trị theo phác đồ hiện hành.

 

Các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu sắt

  • Những cá nhân dễ bị thiếu sắt: Những người giảm nồng độ acid dạ dày ví dụ những người tiêu thụ quá nhiều thuốc kháng acid, thuốc kiềm hoặc đang trong tình trạng bệnh lý như thiếu acid dịch vị hoặc cắt một phần dạ dày, có thể đã suy giảm hấp thu sắt và có nguy cơ cao bị thiếu sắt.

  • Sữa bò là một nguồn thực phẩm nghèo sắt có giá trị sinh học thấp nên không được khuyến cáo sử dụng cho trẻ dưới 1 tuổi. Tiêu thụ sớm sữa bò không hợp lý có liên quan với nguy cơ cao bị thiếu máu thiếu sắt.

  • Độ tuổi kinh nguyệt: Nhu cầu khuyến nghị về sắt cho trẻ em gái tăng ở tuổi 14 để bù lại lượng mất do kinh nguyệt. Đối với những trẻ gái đến tuổi này nhưng chưa có kinh nguyệt, nhu cầu khuyến nghị là 9,3 mg/ngày nếu giá trị sinh học của khẩu phần là 15% và những trẻ đã có kinh, nhu cầu khuyến nghị là 21,8 mg/ngày nếu giá trị sinh học của khẩu phần là 15%.

  • Bứt phá tăng trưởng vị thành niên và trước vị thành niên: Tốc độ tăng trưởng trong thời gian bứt phá tăng trưởng có thể gấp 2 lần tốc độ trung bình đối với trẻ trai và gấp 1,5 lần đối với trẻ gái. Nhu cầu về sắt trong khẩu phần ăn tăng lên đối với trẻ trai và trẻ gái trong giai đoạn bứt phá tăng trưởng.

  • Sử dụng thuốc tránh thai và liệu pháp thay thế hormone: Việc sử dụng thuốc tránh thai làm giảm mất máu kinh nguyệt. Kết quả là phụ nữ sử dụng thuốc tránh thai đường uống có thể có nhu cầu về sắt thấp. Liệu pháp thay thế hormone có thể gây ra một số chảy máu tử cung ở phụ nữ. Trong tình huống này, những phụ nữ sử dụng liệu pháp thay thế hormon có thể có nhu cầu về sắt cao hơn những phụ nữ sau mãn kinh không sử dụng liệu pháp này.

  • Những người ăn chay: Vì sắt hem có giá trị sinh học tốt hơn sắt không hem. Người ta ước tính rằng giá trị sinh học của sắt từ chế độ ăn chay thuộc mức trung bình(hấp thu khoảng 10%) chứ không phải là 18% từ chế độ ăn hỗn hợp của phương Tây. Do đó, nhu cầu về sắt cao gấp 1,8 lần cho người ăn chay.

  • Nhiễm ký sinh trùng đường ruột: Đây là một vấn đề phổ biến tại các quốc gia đang phát triển, nhiễm ký sinh trùng đường ruột có thể gây ra mất máu đáng kể, do đó tăng nhu cầu cầu sắt của cá nhân đó [36, 37].

  • Hiến máu: Hiến máu 500 ml một lần một năm cần bổ sung lượng sắt mất tương ứng khoảng 0,6 mg/ngày trong một năm. Những người thường xuyên hiến máu có nhu cầu về sắt cao hơn.

  • Hoạt động thể lực tích cực thường xuyên: nghiên cứu cho thấy rằng tình trạng sắt thường xuyên ở mép giới hạn/cận biên hoặc không đủ sắt ở nhiều cá nhân,đặc biệt là ở những phụ nữ tham gia các hoạt động thể lực mạnh và thường xuyên [38-40]. Nhu cầu của những cá nhân này có thể có thể cao hơn 30-70% so với những người không thường xuyên tham gia tập thể dục tích cực 

Nguồn: trích từ cuốn Nhu cầu Dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam năm 2016 



 Thiếu máu dinh dưỡng do thiếu sắt 


1. Thế nào là thiếu máu dinh dưỡng?

Thiếu máu dinh dưỡng là hiện tượng thiếu máu do thiếu một hay nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho quá trình tạo máu. Các chất dinh dưỡng tham gia vào tạo máu là chất đạm, sắt, acid folic, vitamin B12, B6, vitamin C…

Thiếu máu dinh dưỡng do thiếu sắt là một thể bệnh thiếu máu dinh dưỡng hay gặp nhất ở nước ta, do cơ thể thiếu chất sắt, là một thành phần quan trọng cần thiết cho quá trình tạo máu. Thiếu máu dinh dưỡng do thiếu sắt là một bệnh tiến triển âm thầm nên thường bị bỏ qua.

Nguyên nhân chủ yếu của bệnh Thiếu máu dinh dưỡng do thiếu sắt là do chế độ ăn thiếu chất sắt so với nhu cầu của cơ thể, ngoài ra còn có nguyên nhân do nhiễm giun (các loại giun sống kí sinh trong ruột, ăn các chất dinh dưỡng làm cho cơ thể thiếu các chất dinh dưỡng, trong đó có chất sắt; hoặc như giun móc làm chảy máu đường tiêu hóa, cơ thể bị mất máu kéo dài, dẫn đến thiếu máu)


2. Các dấu hiệu để nhận biết thiếu máu dinh dưỡng do thiếu sắt

Dấu hiệu sớm:

  • Mệt mỏi, ít hoạt động, hay quấy khóc, ăn kém, dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn.

  • Hay hoa mắt, chóng mặt, kém tập trung, hay đau đầu, buồn ngủ.

Giai đoạn muộn:

  • Thiếu máu xuất hiện từ từ, da xanh, niêm mạc nhợt.

  • Thiếu máu ảnh hưởng đến nhiều cơ quan trong cơ thể: hệ thần kinh, tim mạch, hệ miễn dịch, nội tiết…

Xét nghiệm thường dùng để chẩn đoán thiếu máu là định lượng Hemoglobin (Hb). Trẻ em dưới 5 tuổi và phụ nữ mang thai  nểu Hb < 11g/L và phụ nữ không có thai nếu Hb , 12g/ L được xác định là thiếu máu.

3. Hu quả của thiếu máu dinh dưỡng do thiếu sắt là gì?

Đối với trẻ em:

  • Trẻ biếng ăn, chậm lớn.

  • Hệ miễn dịch suy yếu.

  • Ảnh hưởng đến chỉ số thông minh (IQ).

Đối với các em lứa tuổi học đường:

  • Giảm phát triển trí tuệ, vận động.

  • Giảm khả năng học tập và hoạt động thể lực

  • Giảm phát triển thể lực

  • Giảm sức đề kháng với bệnh nhiễm trùng

Đối với phụ nữ mang thai:

  • Thiếu máu gây nên tình trạng thiếu oxi ở các tổ chức, đặc biệt ở một số cơ quan như tim, não.

  • Nguy hiểm hơn, thiếu máu còn tăng nguy cơ đẻ non, tăng tỷ lệ mắc bệnh và tử vong của của mẹ và con.

  • Những bà mẹ bị thiếu máu có nguy cơ đẻ con nhẹ cân và dễ bị chảy máu ở thời kỳ hậu sản và lại sinh ra những đứa con có tình trạng dự trữ sắt thấp...

4. Tại sao trẻ em hay bị thiếu máu dinh dưỡng do thiếu sắt?


  • Do cung cấp thiếu: thường gặp ở trẻ thiếu sữa mẹ, trẻ đẻ non, sinh đôi, bữa ăn của trẻ thiếu đạm và vi chất dinh dưỡng.

  • Do nhu cầu cao: ở trẻ trong giai đoạn phát triển nhanh: trẻ dưới 2 tuổi, tuổi dậy thì.

  • Do hấp thu kém: khi trẻ bị bệnh mạn tính đường tiêu hóa.

  • Mất máu mạn tính: khi trẻ bị nhiễm giun, loét dạ dày tá tràng, polyp ruột.

Tham khảo thêm: Sách Vi chất dinh dưỡng & sức khỏe

            
 Phòng chống thiếu máu dinh dưỡng


CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG THIẾU MÁU DINH DƯỠNG


1. Bổ sung sắt bằng đa dạng hóa bữa ăn

Đa dạng hóa bữa ăn là giải pháp bền vững nhất để cải thiện tình trạng vi chất của người dân.

Cần cung cấp đủ năng lượng và các thực phẩm giàu sắt cho người mẹ, hướng dẫn lựa chọn các thực phẩm giàu sắt, hạn chế sử dụng các thực phẩm hay đồ uống chứa chất ức chế hấp thu sắt như nước chè đặc, cà phê… Khuyến khích cách chế biến hạt nẩy mầm, lên men như làm giá đỗ, dưa chua để tăng lượng vitamin C và giảm acid phytic trong thực phẩm. Phát triển chăn nuôi gia đình, đặc biệt là phát triển hệ sinh thái vườn-ao-chuồng (VAC) để tạo nguồn thức ăn thường xuyên trong gia đình.


       
         Phát triển hệ sinh thái VAC để tạo nguồn thức ăn thường xuyên trong gia đình

Thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu. Tiếp tục cho trẻ bú mẹ đến 24 tháng và cho ăn bổ sung hợp lý. Tăng cường cho trẻ ăn thức ăn giàu sắt. 



Thực hiện Nuôi con bằng sữa mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu

2. Bổ sung viên sắt

Bsung viên sắt được xem là một trong nhng giải pháp quan trọng trong việc giải quyết tình trng thiếu máu do thiếu sắt. Giải pháp này có khả năng cải thiện nhanh tình trạng sắt trên cộng đồng và đặc biệt có giá trị trong những trường hợp tăng nhu cầu trong một giai đọan ngắn và biết trước được (như bổ sung trong giai đoạn có thai, trẻ em đang lớn, phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ).

Bổ sung sắt, acid folic bằng đường uống: phụ nữ là đối tượng rất dễ bị thiếu sắt và acid folic và trong một số trường hợp, sự bổ sung hai chất dinh dưỡng này thông qua ăn uống là không đủ, do vậy, cần phải bổ sung bằng đường uống thuốc. Phụ nữ không mang thai bổ sung sắt/acid folic mỗi tuần 1 viên (60 mg sắt nguyên tố, 2800 mcg acid folic) trong thời gian 3 tháng, nghỉ 3 tháng, sau đó tiếp tục bổ sung 3 tháng. Phụ nữ có thai cần uống bổ sung viên sắt/acid folic 1 viên/ngày (60 mg sắt nguyên tố và 400 mcg acid folic) từ khi phát hiện có thai đến sau khi sinh một tháng. Để tránh tác dụng phụ (như buồn nôn, táo bón..) của viên sắt nên uống sau bữa ăn 1-2 giờ, sắt hấp thu tốt khi  trong khẩu phần ăn sử dụng những thực phẩm có nhiều Vitamin C. Không uống sắt cùng với chè, cà phê vì chất tanin trong chè, cà phê sẽ giảm hấp thu sắt.

Thực hiện bổ sung viên sắt/acid folic cho phụ nữ có thai và phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ, không có thai. Liều uống bổ sung:

Đối với phụ nữ có thai: Phụ nữ có thai cần uống bổ sung viên sắt/acid folic 1 viên/ngày (60 mg sắt    nguyên tố và Uống viên sắt từ khi phát hiện có thai đến sau sinh một tháng.  

Đối với phụ nữ lứa tuổi sinh đẻ không có thai: Phụ nữ không mang thai bổ sung sắt/acid folic mỗi tuần 1 viên (60 mg sắt nguyên tố, 2800 mcg acid folic) trong thời gian 3 tháng, nghỉ 3 tháng, sau đó tiếp tục bổ sung 3 tháng... Uống vào một ngày nhất định trong mỗi tuần, tối thiểu uống liên tục trong 4 tháng/ năm (tổng số là 16 viên), nếu có điều kiện uống liên tục trong cả năm. 

Để tránh tác dụng phụ (như buồn nôn, táo bón..) của viên sắt nên uống sau bữa ăn 1-2 giờ, sắt hấp thu tốt khi trong khẩu phần ăn sử dụng những thực phẩm có nhiều Vitamin C. Không uống sắt cùng với chè, cà phê vì chất tanin trong chè, cà phê sẽ giảm hấp thu sắt. Để khắc phục, có thể uống liều tăng dần (uống cách 1 ngày 1 viên sau tăng lên uống hàng ngày), uống vào buổi tối trước khi đi ngủ.


Viên sắt cần được bảo quản ở nơi khô ráo, tránh ẩm gây mùi khó uống và giảm chất lượng thuốc. Cần đóng sẵn vào túi nilon nhỏ, tiện cấp phát hàng tháng và bảo quản thuốc khỏi mốc hoặc vỡ.

Đối với thiếu nữ đang học ở các trường phổ thông trung học, ngành y tế phối hợp với nhà trường cho nữ sinh từ 15 tuổi trở lên được uống viên sắt hàng tuần, mỗi tuần một viên theo phác đồ bổ sung hàng tuần (như phác đồ phụ nữ không có thai). Ở các xã/ phường, y tế cần phối hợp với đoàn thanh niên, hội phụ nữ tổ chức và quản lý việc uống viên sắt hàng tuần của đối tượng này.

 

 
  Đối với phụ nữ có thai, áp dụng bổ sung viên sắt theo phác đồ bổ sung hàng ngày.

 

3. Phòng chống các bệnh nhiễm ký sinh trùng, sốt rét và vệ sinh môi trường

Phòng chống các bệnh nhiễm ký sinh trùng, sốt rét, nhiễm trùng cũng là một trong những giải pháp phòng chống thiếu máu. Cải thiện môi trường được coi là một yếu tố cần thiết đi kèm trong tất cả các can thiệp phòng chống thiếu máu hay thiếu vi chất ở các nước đang phát triển như nước ta. Định kỳ tẩy giun, đặc biệt giun móc sẽ có tác động tới cải thiện tình trạng sắt. Khuyến nghị tẩy giun định kỳ hàng năm bằng Mebendazol và Albendazol, đặc biệt cho phụ nữ (không có thai) và trẻ em trên 2 tuổi.

 



Tẩy giun định kỳ

Các giải pháp phối hợp là vệ sinh môi trường và vệ sinh cá nhân: Khuyến khích thói quen rửa tay bằng xà phòng trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, sử dụng nước sạch cho ăn uống. Xử lý phân rác hợp vệ sinh, không dùng phân tươi bón ruộng, sủ dụng bảo hộ lao động khi làm nông nghiệp.


                                 
 

 4. Tăng cường sắt vào thực phẩm

 

Tăng cường sắt vào thực phẩm là một giải pháp lựa chọn chiến lược có hiệu quả và an toàn cao. Tăng cường sắt vào thực phẩm đã được triển khai tốt ở các nước phát triển và các nước đang phát triển. Trên thế giới sắt được tăng cường vào các lọai thức ăn như sữa, bột ngũ cốc, bánh mì, mì ăn liền, sữa bột đậu tương, bánh bích quy. Ở Việt Nam sắt được tăng cường vào nước mắm, bánh bích qui, bánh dinh dưỡng Mumsure cho phụ nữ trước khi có thai, phụ nữ có thai và cho con bú, bột dinh dưỡng cho thời kỳ ăn bổ sung, bột dinh dưỡng Growsure…Nhiều nghiên cứu đã chứng minh hiệu quả của bổ sung sắt vào thực phẩm trong việc cải thiện tình trạng sắt cơ thể của trẻ.

Để thực phẩm có tăng cường chất sắt được sử dụng thường xuyên hàng ngày nhằm cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em, cần tăng cường giáo dục truyền thông để người dân nâng cao hiểu biết và sử dụng sản phẩm vì mục đích nâng cao sức khỏe cho bản thân, gia đình và cộng đồng.


Trích từ cuốn Chăm sóc dinh dưỡng cho bà mẹ và trẻ em  - Viện Dinh dưỡng


Tham khảo thêm: Sách Vi chất dinh dưỡng & sức khỏe