Vai trò của Vitamin A

Vitamin A là một vi chất dinh dưỡng quan trọng, nó có rất nhiều chức phận quan trọng trong cơ thể:

  • Vitamin A có vai trò quan trọng đối với quá trình tăng trưởng, giúp cho trẻ phát triển bình thường.

  • Vitamin A tham gia vào chức năng nhìn của mắt trong điều kiện ánh sáng yếu. Biểu hiện của nó được gọi là "Quáng gà", đây là dấu hiệu sớm của thiếu vitamin A.

  • Vitamin A tham gia vào chức năng thị giác của mắt, đó là khả năng nhìn thấy trong điều kiện ánh sáng yếu. Khi thiếu vitamin A khả năng nhìn thấy của mắt lúc ánh sáng yếu sẽ bị giảm, hiện tượng này thường xuất hiện vào lúc trời nhá nhem tối nên được gọi là "Quáng gà". Quáng gà là biểu hiện sớm về lâm sàng của thiếu vitamin A.

  • Vitamin A cần thiết để bảo vệ sự toàn vẹn của giác mạc và các tổ chức biểu mô dưới da, khí quản, các tuyến nước bọt, ruột non, tinh hoàn... Khi thiếu vitamin A, sản xuất các niêm mạc giảm, da bị khô và xuất hiện sừng hóa, biểu hiện này thường thấy ở mắt, lúc đầu là khô kết mạc rồi tổn thương đến giác mạc. Các tế bào biểu mô bị tổn thương cùng với sự giảm sút sức đề kháng tạo điều kiện cho vi khuẩn xâm nhập.

  • Vitamin A tham gia vào các quá trình đáp ứng miễn dịch của cơ thể, làm tăng sức đề kháng của cơ thể đối với bệnh tật. Nếu thiếu vitamin A, trẻ em dễ mắc các bệnh nhiễm khuẩn và khi bị mắc bệnh, thời gian bệnh kéo dài hơn, nguy cơ tử vong cao hơn.

                                             Nguồn: Trích từ Chăm sóc dinh dưỡng cho bà mẹ và trẻ em - Viện Dinh dưỡng

Tham khảo thêm:
 


1. Sách Vi chất dinh dưỡng & Sức khỏe







 


Bảng Nhu cầu Vitamin A khuyến nghị
(Nhu cầu Dinh dưỡng khuyến nghị cho người Việt Nam, 2007)

             


          
Bệnh lý
ĐÁNH GIÁ TÌNH TRẠNG THIẾU VITAMIN A

1. Các biểu hiện lâm sàng của khô mắt do thiếu Vitamin A:


Quáng gà: (kí hiệu XN): Là hiện tượng giảm thị lực trong điều kiện thiếu ánh sáng. Đây là biểu hiện sớm nhất của bệnh khô mắt do thiếu vitamin A, phát hiện bệnh thông qua các biểu hiện: vào lúc chiều chập choạng tối, trẻ mắc bệnh trở nên nhút nhát, chỉ ngồi yên tại chỗ, không dám đi lại hoặc chạy theo bạn đùa nghịch. Trẻ lớn thường phải lần tường khi đi lại và hay va vấp vào những đồ vật trên lối đi, hay bị vấp ngã. Trẻ không biết tìm nhặt đồ chơi và không cầm đúng thức ăn khi mẹ đưa cho. Cần phân biệt với một số ít trường hợp quáng gà do bệnh nhân nhãn khoa chứ không do thiếu vi-tamin A (chẩn đoán phân biệt bằng điều trị thử vitamin A). Quáng gà do thiếu vitamin A khi được điều trị bằng vitamin A liều cao sẽ khỏi nhanh chóng sau 2-3 ngày.


Vệt Bito (ký hiệu X1B): Là những vệt trắng bóng trên màng tiếp hợp mắt (còn gọi là kết mạc hay lòng trắng), thường có hình tam giác như đám bọt xà phòng, hay gặp ở sát rìa giác mạc ở vị trí 3 giờ hoặc 9 giờ, có thể thấy ở cả 2 mắt. Vệt Bito chính là những đám tế bào biểu mô kết mạc bị khô, dày lên, sừng hóa và bong vảy. Vệt Bito là triệu chứng đặc hiệu của tổn thương kết mạc do thiếu vitamin A.

Khô giác mạc (ký hiệu là X2): Giác mạc (lòng đen) trở nên mất độ bóng sáng, mờ đục như làn sương phủ, có thể sần sùi. Khô giác mạc hay xảy ra ở nửa dưới giác mạc. Thường khô giác mạc hay kèm theo khô kết mạc, có khi kèm vệt Bito. Biểu hiện quan trọng nhất là trẻ sợ ánh sáng, hay cụp mắt nhìn xuống, ra sáng thường nhắm mắt, ở giai đoạn này nếu được phát hiện và điều trị kịp thời, có thể hồi phục hoàn toàn không để lại di chứng.

Loét nhuyễn giác mạc (ký hiệu là X3A và X3B): Loét giác mạc là sự mất tổ chức một phần hay tất cả các lớp của giác mạc. Khi loét giác mạc được phát hiện và điều trị kịp thời thì vết loét sẽ liền nhanh, sẹo để lại nhỏ và mỏng, thị lực bị giảm ít. Nếu để loét giác mạc sâu và rộng sẽ bị mù vĩnh viễn.

Sẹo giác mạc do khô mắt (ký hiệu là XS): Là di chứng sau khi bị loét giác mạc, tùy theo vị trí và mức độ sẹo (sẹo lồi, sẹo dúm) sẽ ảnh hưởng đến thị lực hoặc mù hoàn toàn.

Tổn thương đáy mắt do khô mắt (ký hiệu là XF): Là tổn thương của võng mạc do thiếu vitamin A, biểu hiện tình trạng thiếu vitamin A mạn tính. Tổn thương thường gặp ở trẻ tuổi đi học, có thể kèm theo quáng gà. Phát hiện bằng soi đáy mắt, cho thấy hình ảnh các chấm nhỏ màu trắng hoặc vàng nhạt rải rác, dọc theo các mạch máu võng mạc. Điều trị bằng vitamin A sẽ hồi phục nhanh chóng.

2. Đánh giá hóa sinh

Hàm lượng vitamin A trong gan là chỉ tiêu tốt nhất để đánh giá về tình trạng vitamin A, tuy vậy không dễ thực hiện. Trong cơ thể, có tới 90% vitamin A tích lũy ở gan, do đó các xét nghiệm về hàm lượng vitamin A huyết thanh chỉ có giá trị tương đối, vì khi hàm lượng vitamin A dự trữ ở gan đã thay đổi khá nhiều, nó vẫn ở mức tương đối ổn định nhờ một cơ chế điều hòa.

Trong thời kỳ bú mẹ, mức vitamin A trong sữa mẹ là một chỉ tiêu quan trọng, qua đó biết được tình trạng vitamin A cũng như nguy cơ thiếu vitamin A ở đứa trẻ đang bú.

3. Điều tra khẩu phần


Chú ý tìm hiểu nuôi con bằng sữa mẹ, sử dụng các nguồn thức ăn giàu vitamin A và caroten sẵn có ở địa phương, tình hình dao động theo mùa và tập quán ăn uống đặc biệt là cho trẻ ăn sam, cách cho ăn khi trẻ bị ỉa chảy và các bệnh nhiễm trùng.


Sau đây là một số chỉ tiêu gợi ý đánh giá tình trạng thiếu vitamin A ở trẻ em:


Tình trạng
 Vitamin A khẩu phần
mcg/ ngày

Vitamin A ở gan mg/kg
 Vitamin A huyết thanh mcg/100ml
Biểu hiện lâm sàng
Tốt Trên 400
 Trên 20
 Trên (>0,70 µmol/ L)
 Không
Vùng ranh giới
 200 - 400
 10 - 20
10 - 20 (0,35–0,70 µmol/ L)Có thể có biểu hiện chậm lớn, ăn kém ngon, giảm sức đề kháng với nhiễm trùng
Vùng bệnh lý
 Dưới 200
 Dưới 10

Dưới 10

(<0,35 µmol/ L)
Xuất hiện các biểu hiện lâm sàng (quáng gà, nhũn giác mạc)


Chỉ tiêu mắc bệnh ở trẻ em (6 tháng đến 6 tuổi) để xác định tầm quan trọng của khô mắt (Tổ chức Y tế thế giới,1992)



Vệt Bitot (X1B)                                                               > 0,5%

Khô giác mạc/lóet giác mạc/nhũn giác mạc (X2/X3A/X3B)                   > 0,01%

Sẹo giác mạc do khô mắt (XS)                                              > 0,05%

Các chỉ tiêu hóa sinh hỗ trợ:

  • Hàm lượng vitamin A trong huyết thanh dưới 0.35 µmol/L >  5%
  •  Hàm lượng Vitamin A trong sữa mẹ dưới 1.05 µmol/L > 10%

Khi tỷ lệ mắc bệnh vượt quá một trong 3 chỉ tiêu lâm sàng ở trên, có thể kết luận ở đấy có vấn đề thiếu vitamin A và bệnh khô mắt.

                                                                               Nguồn: Trích từ cuốn Chăm sóc dinh dưỡng cho bà mẹ và trẻ em - Viện Dinh dưỡng

Tham khảo thêm: Sách Vi chất dinh dưỡng & sức khỏe
  Phòng chng thiếu Vitamin A
1. Ci thiện ba ăn, giáo d
c truyn thông dinh dưỡng: Chiến lược dài hạn và bền vững phòng chống thiếu vitamin A.

Bảo đảm ăn uống đủ nhu cầu các chất dinh dưỡng và vitamin A. Thực hiện nuôi con bằng sữa mẹ vì sữa mẹ là nguồn cung cấp vitamin A tốt nhất đối với trẻ nhỏ. Chế độ ăn bổ sung của trẻ cần có thức ăn giàu vitamin A như:

  • Thức ăn nguồn gốc động vật: Trứng, cá, thịt, gan, bầu dục, tôm…

  • Thức ăn nguồn gốc thực vật: Ở nước ta, các loại rau có hàm lượng Beta -caroten đáng chú ý là rau muống, xà lách, rau ngót, rau diếp, rau dền, hành lá, hẹ lá, rau thơm, các loại củ quả như gấc, cà rốt, quả chín như đu đủ, xoài…

Ngoài ra, thức ăn bổ sung của trẻ cần có dầu hoặc mỡ để tăng cường hấp thu vitamin A, vitamin D. Tăng cường giáo dục truyền thông đại chúng để nâng cao kiến thức cho người dân về cách phòng chống thiếu vitamin A, hướng dẫn thực hành để các gia đình biết cách lựa chọn và sử dụng thực phẩm giàu vitamin A cho bữa ăn gia đình và chăm sóc sức khỏe.

2. Bổ sung viên nang vitamin A liều cao: Giải pháp ngắn hạn.

Bổ sung vitamin A liều cao là thực hiện cho các nhóm đối tượng nguy cơ cao được uống vitamin A định kỳ hàng năm, thông thường 6 tháng một lần.

Đối tượng được bổ sung viên năng vitamin A liều cao: bổ sung vitamin A 6 tháng một lần cho trẻ 6-36 tháng tuổi (có thể mở rộng đến 60 tháng tuổi ở những nơi khó khăn, có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao) và các bà mẹ trong vòng một tháng sau sinh.

               
                                          Lễ phát động ngày Vi chất dinh dưỡng năm 2015


Tháng 3/2011, tổ chức Y tế Thế giới khuyến nghị ngừng bổ sung vitamin A liều cao cho bà mẹ sau sinh do nhiều nghiên cứu không thấy hiệu quả, tuy nhiên Việt Nam đang thảo luận và chưa áp dụng khuyến nghị này.

Phác đồ bổ sung vitamin A hiện tại như sau: Bổ sung vitamin A liều cao cho trẻ 6-36 tháng tuổi uống theo chiến dịch vào ngày vi chất dinh dưỡng 1-2 tháng 6 (đợt 1) và kết hợp với ngày tiêm chủng tháng 12 (đợt 2) hàng năm với liều 100.000 đơn vị cho trẻ 6-12 tháng tuổi, 200.000 đơn vị cho trẻ 12-36 tháng tuổi. Với trẻ < 6 tháng tuổi không được bú mẹ cho uống 50.000 đơn vị.

Ngoài các chiến dịch, chương trình còn bổ sung vitamin A cho trẻ dưới 5 tuổi có nguy cơ thiếu vitamin A (trẻ dưới 6 tháng không được bú mẹ, trẻ dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng, tiêu chảy kéo dài, nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, sởi) và bà mẹ trong tháng đầu sau sinh (để tăng cường vitamin A trong sữa mẹ). Ở một số tỉnh khó khăn; những vùng có tỷ lệ suy dinh dưỡng và thiếu vitamin A cao, thì các trẻ từ 37-60 tháng tuổi cũng được bổ sung 200.000 đơn vị vitamin A, một năm 2 lần.

Với bà mẹ sau khi sinh con trong vòng một tháng cần bổ sung uống 1 liều viên nang vitamin A 200.000 IU/ 1 lần.

Chú ý: Đối với trẻ phát hiện bị khô mắt cần phải điều trị nhanh chóng, kịp thời. Tất cả các trường hợp mắc bệnh từ quáng gà, khô kết mạc, vệt Bitot đến khô loét giác mạc đều được cấp tốc điều trị theo phác đồ của Tổ chức Y tế Thế Giới như sau:

  • Ngay lập tức: cho uống 200.000 IU vitamin A.

  • Ngày hôm sau: uống tiếp 200.000 IU vitamin A.

  • Một tuần sau: uống nốt 200.000 IU vitamin A.

Trường hợp có biểu hiện thiếu vitamin A: lặp lại liều trên sau 4-6 tuần.

Chú ý: Với trẻ dưới 12 tháng dùng nửa liều trên (mối lần uống 100.000 IU vitamin A).

3. Phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn

Phòng chống các bệnh nhiễm khuẩn có ý nghĩa rất quan trọng trong phòng chống thiếu vitamin A, đặc biệt là bệnh sởi, bệnh tác động đến mắt nên đặc biệt nguy hiểm đối với trẻ thiếu vitamin A. Do đó, công tác phòng chống bệnh thiếu vitamin A cần nằm trong chương trình phòng chống các bệnh thiếu dinh dưỡng và nhiễm khuẩn và được triển khai lồng ghép trong các hoạt động chăm sóc sức khỏe ban đầu. Phòng chống thiếu vitamin A cần phối hợp với phòng chống suy dinh dưỡng, không những thực hiện tốt cho đối tượng trẻ em mà cần quan tâm đến cải thiện tình trạng vitamin A ở người mẹ.

4. Tăng cường vitamin A trong một số thực phẩm

Tăng cường vitamin A vào thực phẩm được xem như là một giải pháp lâu dài để phòng chống vi chất dinh dưỡng nói chung và phòng chống thiếu vitamin A nói riêng. Giải pháp này đã thành công ở nhiều nước: như tăng cường vitamin A vào đường (các nước Trung Mỹ), dầu ăn (Philippines, Indonesia), mỳ ăn liền, thức ăn nhanh (Thái Lan).

Nước ta đã có những nghiên cứu thử nghiệm tăng cường vitamin A vào đường, vào bột mỳ, vào thức ăn bổ sung (bột dinh dưỡng) cho trẻ em, chứng minh cải thiện tình trạng vitamin A người sử dụng.

                                                      Nguồn: Trích từ cuốn Chăm sóc Dinh dưỡng cho bà mẹ và trẻ em - Viện Dinh dưỡng

Tham khảo thêm: Sách Vi chất dinh dưỡng & sức khỏe